Vôi trong nuôi trồng thủy sản aquavet.vn
Có bao nhiêu loại vôi
Có hai loại vôi cơ bản: vôi nung (CaO) và vôi ngậm nước Ca(OH)2. Vôi nung được tạo ra bằng cách nung đá vôi ở nhiệt độ cao trong lò để đẩy khí cacbonic ra khỏi đá vôi và tạo ra một oxit. Đá vôi là canxi cacbonat (CaCO3) hoặc hỗn hợp của canxi cacbonat và magie cacbonat (MgCO3), vì vậy vôi sống là canxi oxit (CaO) hoặc hỗn hợp của canxi oxit và magie oxit (MgO). Vôi nung còn được gọi là vôi sống. Vôi nung phản ứng với nước sẽ tạo thành vôi ngậm nước là canxi hydroxit [Ca(OH)2] hoặc hỗn hợp canxi hydroxit và magie hydroxit [Mg(OH)2]. Vôi ngậm nước còn được gọi là vôi tôi hoặc vôi xây dựng. Cả vôi nung và vôi ngậm nước đều được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Chất lượng của vôi được đánh giá chủ yếu bằng hai chỉ tiêu – giá trị trung hòa và kích thước hạt.
Vôi sống tác dụng với nước
Khi bạn pha vôi sống với nước sẽ tỏa ra nhiệt lượng đáng kể, vôi sẽ phản ứng nhanh hơn khi bạn pha ở nhiệt độ thấp hơn. Mọi người thường nói rằng khi pha vôi vào trong nước sẽ làm tăng nhiệt độ của ao nuôi. Về mặt kỹ thuật, điều này hoàn toàn đúng, mỗi kg CaO phản ứng với nước sẽ giải phóng 272,6 kilocalories nhiệt. Một kilocalorie sẽ làm tăng nhiệt độ của 1 lít nước thêm 1 độ C. Tỷ lệ bón vôi nung trong nước theo quy chuẩn là 50 kg/ha hoặc ít hơn. Giả sử rằng 50 kg vôi sống được thêm vào một cái ao tôm rộng 5.000 m2 (7.500.000 L). Nếu vôi phản ứng hoàn toàn với nước sẽ tỏa ra 13,630 kilocalo. Nhiệt độ của nước ao sẽ tăng 0,0018 độ C – một lượng không đáng kể.
Đối với vôi tôi sẽ không tỏa nhiệt đáng kể khi nó hòa tan trong nước. Mỗi kg CaO tương đương với 1,32 kg Ca(OH)2. Độ hòa tan của Ca(OH)2 là khoảng 0,12 g/100 mL (1.200 mg/L) ở 30 độ C.
Report Story